TƯ LIỆU SƯU TẦM

  
 Ngày 16/06/2013 (Sưu tầm)

Résveratrol là gì?
Resveratrol là chất gì và Resveratrol có tác dụng như thế nào đối với con người? 
 
 Một nghiên cứu từ Trung tâm nghiên cứu về Trẻ em trường đại học Murdoch tại Melbourne đã tìm ra rằng: "Resveratrol có rất nhiều tác dụng liên quan đến việc điều trị hen suyễn bao gồm tác dụng điều trị triệu chứng viêm sưng, chứng xơ hóa và kích thích quá trình sản sinh tế bào. Resveratrol có thể đem lại một liệu pháp vô cùng quan trọng trong việc điều trị hen suyễn, có khả năng ngăn chặn các triệu chứng viêm nhiễm đường hô hấp và hạn chế ảnh hưởng xấu từ môi trường bên ngoài, vốn được biết đến là các tác nhân chính gây ra các triệu chứng mẫn cảm đường hô hấp và khiến sức khỏe lá phổi giảm sút nghiêm trọng. Các phát hiện quan trọng này còn chỉ ra rằng liệu pháp Resveratrol có khả năng làm giảm nguy cơ biến đổi cơ cấu và chức năng đường hô hấp, cũng như làm giảm các triệu chứng viêm đường hô hấp. Điều này mở ra cơ hội phát triển một liệu pháp điều trị mới đối với căn bệnh hen suyễn.



Ngày 16/06/2013 (Sưu tầm) 

Những phát hiện mới về nho đỏ
Công dụng và tính năng của nho đỏ tốt cho con người
 

Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh nho đỏ có thể giảm nguy cơ tai biến tim mạch, giảm tác hại của thuốc lá đối với phổi. Thậm chí loại quả này còn ngăn ngừa ung thư và giúp cơ thể chống đỡ tốt hơn những tác dụng phụ mà việc điều trị ung thư gây ra.

 
Nho đã được trồng để lấy quả từ 5.000 năm trước Công nguyên. Nó vốn là cây ăn quả của vùng ôn đới, các nước nhiệt đới cũng trồng được nhưng cho sản lượng ít. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã có những phát hiện mới về tác dụng phòng ngừa bệnh tật của loại nho có vỏ màu đỏ hay tím sẫm.

Gần đây, nhiều nghiên cứu đã công bố những lợi ích của rượu vang đỏ (sản xuất từ nho đỏ). Người ta cho rằng việc dùng điều độ 1 ly nhỏ vang đỏ trong mỗi bữa ăn sẽ giúp động mạch dễ giãn nở, không bị tắc nghẽn nên rất tốt cho huyết áp, phòng tránh được các tai biến tim mạch, làm giảm 40% nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch.

Trước đây, một số nhà khoa học cho rằng sở dĩ rượu vang đỏ có lợi cho sức khỏe là do tính chống oxy hóa của flavonoid. Cũng có ý kiến cho rằng rượu vang đỏ chứa những chất polyphenol nên có ích với tim mạch... Nhưng hiện nay, người ta đã biết chính xác rằng chính hợp chất resveratrol trong lớp vỏ của nho đỏ (nho xanh không có chất này) đã đem lại những lợi ích nói trên. Resveratrol có tác dụng ngăn hồng cầu kết dính vào nhau, làm giảm nguy cơ hình thành các cục máu đông, tăng cholesterol tốt (HDL) và giảm cholesterol xấu (LDL).
Mới đây, các nhà khoa học Anh lại phát hiện thêm một tác dụng tốt của resveratrol. Họ đã tiến hành thử nghiệm đối với 15 người hút quá nhiều thuốc lá và 15 bệnh nhân mắc chứng phổi tắc nghẽn mạn tính. Sau khi dùng resveratrol, việc sinh sản interleukin 8 - một chất gây ra tình trạng viêm phổi - đã giảm 94% ở người hút thuốc lá và 88% ở người mắc chứng phổi tắc nghẽn mạn tính.

Các nhà nghiên cứu thuộc khoa Y Đại học Havard và phòng nghiên cứu Biomol ở Philadelphia (Mỹ) phát hiện thấy phân tử resveratrol có thể điều tiết hoạt động của các gene liên quan đến việc kéo dài sự sống của tế bào men thêm 70%. Họ đang thử nghiệm trên chuột với hy vọng tìm ra cách giúp kéo dài tuổi thọ.

Theo dược điển Mỹ, nho có công dụng chữa chứng ăn khó tiêu, sốt, trĩ, táo bón, các bệnh gan, thận. Nước ép nho đỏ vừa ảnh hưởng trực tiếp lên phản ứng đông máu, vừa làm tăng nồng độ các chất chống oxy hóa và làm giảm các gốc tự do. Resveratrol có khả năng chống oxy hóa mạnh gấp 7 lần vitamin E. Một nghiên cứu khác cho thấy, nước ép nho đỏ có hoạt tính chống oxy hóa mạnh gấp 3 lần so với nước ép cà chua, cam, bưởi.

Do những đặc tính nói trên, các nhà dinh dưỡng Mỹ cho rằng nước ép từ quả nho đỏ có khả năng ngăn ngừa ung thư và tăng cường sức chống đỡ của cơ thể trước những tác hại của hóa trị và xạ trị. Còn David Kessler, một tác giả về thức ăn chữa bệnh thì cho rằng nho đỏ chứa acid ellagic, là chất có khả năng chống ung thư.
Ngoài ra, trong quả nho còn có boron, một chất làm chậm lại hoặc ngăn chặn chứng loãng xương ở phụ nữ mãn kinh, người cao tuổi.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng khuyến cáo không nên lạm dụng rượu vang đỏ vì dù sao nó cũng là rượu, chứa cồn etylic. Không nên uống quá 30 g cồn etylic/ngày (khoảng 250-300 ml rượu vang 10-14 độ).

Những người không thích uống rượu vang thì nên uống nước ép nguyên chất từ quả nho đỏ; hoặc đơn giản là ăn nho đỏ cả vỏ (đã rửa sạch), không hạn chế liều lượng.

Chú ý khi mua nho, nên chọn loại có vỏ đỏ hoặc tím sẫm, quả mọng, màu tươi, chắc, còn dính vào cuống. Để nguyên không rửa, bọc vào khăn giấy và dự trữ trong tủ lạnh. Trước khi ăn, rửa nho bằng cách xả nước cho thật sạch, ăn cả vỏ và hạt.



Ngày 16/11/2012 (Sưu tầm)

Tế bào gốc và công nghệ tế bào gốc

 Khái niệm:
Tế bào gốc là tế bào có khả năng biệt hoá thành nhiều loại tế bào khác để thay thế cho các tế bào bị mất đi do già và chết tự nhiên hay do chấn thương vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong cơ thể các tế bào gốc được cất giữ tại các vị trí đặc biệt được gọi là “ổ” tế bào gốc (“stem cell niche”). Ổ tế bào gốc nằm rải rác ở khắp các mô và cơ quan trong cơ thể. Từ đây, các tế bào cứ đều đặn (hoặc tăng tốc độ khi có nhu cầu như sau nhiễm trùng hay chấn thương) tăng sinh và biệt hoá, cung cấp nguồn tế bào mới để tái tạo mô và giữ cho cơ thể luôn ở trạng thái cân bằng. Quá trình liền vết thương và phục hồi các thoái hoá/tổn thương của các mô, cơ quan trong cơ thể có nhiều cơ chế phức tạp nhưng kết quả cuối cùng là tái lập lại các mô đã bị thoái hoá/tổn thương. Chính các tế bào gốc là lực lượng dự trữ được huy động để tái tạo các tế bào bị tổn thương đó. Ở các cơ thể còn trẻ, khỏe thì lượng tế bào gốc còn phong phú nên khả năng liền vết thương mạnh. Với các cơ thể già và yếu thì lượng tế bào gốc cũng suy yếu nên không còn khả năng tự tái tạo dẫn đến các biểu hiện của tuổi già, suy các cơ quan hoặc không liền vết thương. Vì thế điều trị bằng tế bào gốc chính là để bổ sung nguồn tế bào non trẻ, có thể tạo ra các loại tế bào mới, mô mới bổ sung hoặc thay thế cho các tế bào và mô cơ quan bị tổn thương hay mất chức năng.
Phân loại:
Các tế bào gốc có thể lấy ra từ phôi, thai, dịch ối, dây rốn, nhau thai, các mô khác nhau của người sau khi sinh cho đến người trưởng thành. Dựa vào nguồn mô lấy ra để phân lập so với giai đoạn phát triển phôi thai và cơ thể người ta chia các tế bào gốc thành các loại sau:


  • Tế bào gốc phôi (embryonic stem cells): là các tế bào gốc được lấy từ khối tế bào bên trong của phôi nang 4-7 ngày tuổi. Đây là các tế bào chưa biệt hoá, có tính vạn tiềm năng, có thể phát triển thành gần như bất kỳ loại tế bào nào của cơ thể.
  • Tế bào gốc thai (foetal stem cells): là các tế bào gốc được phân lập từ tổ chức thai sau nạo phá thai. Đây là các tế bào vạn tiềm năng hoặc đa tiềm năng, tức là chúng có tiềm năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau của các mô và cơ quan.
  • Tế bào gốc nhũ nhi (infant stem cells): là các tế bào đa tiềm năng hoặc vạn tiềm năng phân lập từ cơ thể trẻ sơ sinh, dây rốn, và từ nhau thai.
  • Tế bào gốc trưởng thành (adult stem cells): là các tế bào chưa biệt hoá, được tìm thấy số lượng ít trong các mô của người trưởng thành (tủy xương, máu ngoại vi, mô não, mô da, mô cơ...), được cho là có tính đa tiềm năng.
  • Tế bào gốc giống tế bào gốc phôi (embryonic like stem cell) hay tế bào gốc vạn tiềm năng cảm ứng (induced plutipotent stem cell) là những tế bào được tạo ra bằng cách cảm ứng các tế bào đã biệt hoá của cơ thể trở lại trạng thái giống như tế bào gốc phôi.

Trong số các nguồn cung cấp tế bào gốc kể trên, việc lấy tế bào gốc từ phôi, thai, dịch ối trước sinh có liên quan đến hủy phôi, nạo phá thai, can thiệp chọc dịch ối trước sinh là những việc làm có liên quan đến các lo ngại về đạo đức và ảnh hưởng bất lợi cho thai nhi; Việc lấy tế bào gốc từ các mô ở người trưởng thành như tủy xương, máu ngoại vi, nang lông… có những khó khăn về kỹ thuật và hạn chế về số lượng tế bào cũng như chất lượng tế bào gốc vì chúng tương đối “già” hơn so với các tế bào gốc lấy từ phôi và thai.

Các loại tế bào gốc. Công nghệ tế bào gốc:
Là công nghệ nghiên cứu tìm kiếm, duy trì và khai thác các ứng dụng của tế bào gốc. Công nghệ tế bào gốc gồm có 3 nhóm công việc chính là:


  • Tạo nguồn tế bào gốc: tìm kiếm các nguồn cung cấp tế bào gốc, tách chiết và duy trì các tế bào gốc trong các ngân hàng hoặc phòng thí nghiệm để có nguồn tế bào gốc thường trực sử dụng cho nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc.
  • Biệt hoá tế bào gốc: các tế bào gốc là các tế bào còn non trẻ chưa có cấu trúc và chức năng chuyên biệt như các tế bào đã biệt hoá. Biệt hoá tế bào gốc chính là biến đổi các tế bào gốc từ chỗ chưa có cấu trúc và chức năng chuyên biệt thành tế bào có cấu trúc và chức năng chuyên biệt như tế bào xương, tế bào da, tế bào cơ, tế bào gan, tế bào thần kinh...
  • Ứng dụng tế bào gốc: là công việc sử dụng tế bào gốc vào các mục đích khác nhau như nghiên cứu các cơ chế sinh lý và bệnh lý của cơ thể, nghiên cứu phát triển thuốc và các biện pháp điều trị mới.
    Ngân hàng tế bào gốc
Trích dẫn
Ngày 16/11/2012 (Sưu tầm)

Lợi ích của rượu vang đỏ đối với sức khỏe


Các nhà khoa học đến từ X-cốt-len và Xing-ga-po đã tìm ra lời giải đáp cho một câu hỏi liên quan tới lợi ích của rượu vang đỏ: hợp chất resveratrol trong loại rượu này (một loại chất chống ôxi hóa polyphenol) có khả năng điều chỉnh tình trạng viêm nhiễm ra sao?
Kết quả nghiên cứu mới công bố tháng 8 năm 2009 trên tờ The FASEB Journal không chỉ giải thích rõ tác động kép của resveratrol đối với tình trạng viêm, mà còn chỉ ra bằng cách nào resveratrol cùng các dẫn xuất của nó có thể được áp dụng trong phòng ngừa các nguyên nhân gây tử vong liên quan tới sưng viêm, ví dụ như viêm ruột thừa, viêm phúc mạc, và nhiễm trùng cơ thể.
Các bệnh viêm ác tính như nhiễm trùng rất khó điều trị và mỗi ngày gây ra nhiều ca tử vong trên khắp thế giới,” Alirio Melendez, đồng tác giả của nghiên cứu, giảng viên khoa Y tại Trung tâm Nghiên cứu Hóa sinh Glasgow, X-côt-len cho biết. “Hơn nữa, sức khỏe của những người sống sót sau nhiễm trùng cũng bị giảm sút đáng kể do những tổn thương trong các nội quan. Mục tiêu cao nhất của nghiên cứu lần này là xác định một liệu pháp điều trị mới cho các bệnh nhiễm trùng ác tính.”

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đưa một tác nhân gây nhiễm trùng vào hai nhóm chuột thử nghiệm. Một trong hai nhóm trước đó đã được xử lý với resveratrol. Kết quả cho thấy nhóm chuột chưa được tiêm resveratrol có phản ứng nhiễm trùng rất mạnh, trong khi nhóm đã tiêm được bảo vệ khỏi tác nhân gây nhiễm trùng. Các nhà khoa học cũng tiến hành kiếm tra các mô của chuột để xác định rõ bằng cách nào resveratrol có thể bảo vệ chúng khỏi bị nhiễm trùng. Họ phát hiện ra rằng resveratrol có tác động kép ngăn ngừa nhiễm trùng với khả năng ngăn không cho cơ thể tạo ra hai loại phân tử gây nhiễm trùng (sphingosine kinase và phospholipase D). Phát hiện này gợi ý rằng tới đây người ta có thể sản xuất các loại thuốc trong đó resveratrol là thành phần chính để điều trị các bệnh nhiễm trùng.

“Khả năng chữa bệnh của rượu vang đỏ đã được biết đến từ hàng ngàn năm nay,” Gerald Weissmann, tổng biên tập tờ FASEB Journal phát biểu, “và giờ đây các nhà khoa học đã khám phá ra bí mật của khả năng này. Hiểu rõ cơ chế hoạt động của resveratrol hứa hẹn sẽ đem lại những phương thuốc điều trị mới cho nhiễm trùng ác tính.”

(Theo ScienceDaily)



Ngày 16/11/2012 (Sưu tầm)

Resveratrol trong rượu vang phòng tránh lão hóa tim, xương, mắt và cơ

 Các nhà khoa học phát hiện hợp chất resveratrol – thành phần của rượu vang đỏ và vỏ nho - trong bữa ăn bình thường có thể làm chậm quá trình lão hóa cũng như suy giảm chức năng nhưng lại không làm tăng tuổi thọ.

Được tiến hành và tài trợ một phần bởi Viện lão hóa quốc gia (NIA) cùng với Viện y tế quốc gia, đây là nghiên cứu kế tiếp của các kết quả thu được năm 2006 rằng resveratrol có thể tăng cường sức khỏe cũng như tuổi thọ của những con chuột già nua, béo phì. Báo cáo nghiên cứu xác nhận các kết quả trước đó cho rằng hợp chất có trong thực phẩm tự nhiên như nho và quả hạch có thể bắt chước một vài công dụng của chế độ ăn kiêng hạn chế calo. Đây cũng là cách hiệu quả nhất ngày nay làm giảm nhẹ các bệnh liên quan đến lão hóa ở động vật có vú.

Theo các khoa học gia NIA, kết quả của nghiên cứu được đăng tải trên số ra ngày 3 tháng 6, 2008 tờ Cell Metabolism có thể sẽ làm tăng hứng thú của mọi người đối với resveratrol như một chất can thiệp tiềm năng vào quá trình lão hóa. Tuy nhiên các tác giả nhấn mạnh kết quả nghiên cứu của họ chỉ dựa trên thí nghiệm tiến hành ở chuột chứ không phải con người; vì thế nghiên cứu không có ý nghĩa trực tiếp đối với những người có sức khỏe bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau trừ những yếu tố có xuất hiện trong nghiên cứu trên động vật.


Nghiên cứu nhận được sự cộng tác hỗ trợ từ phòng thí nghiệm của tiến sĩ Rafael de Cabo, Phòng thí nghiệm Lão khoa thí nghiệm tại NIA, Phòng thí nghiệm Sinh học phân tử của quá trình lão hóa Glenn thuộc đại học Y Harvard, cùng với tiến sĩ David A. Sinclair và một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế khác. Để tìm hiểu tác động của resveratrol đối với lão hóa và sức khỏe, các chuyên gia đã so sánh những con chuột được cung cấp chế độ ăn theo tiêu chuẩn với chế độ ăn nhiều calo; ngoài ra chúng còn được cho ăn bữa xen kẽ có hoặc không có resveratrol với liều lượng cao hoặc thấp. Trong các nghiên cứu trước đó, các dạng hạn chế suất ăn, bao gồm bữa ăn xen kẽ, cho thấy có khả năng cải thiện các chỉ tiêu về sức khỏe. 

Giám đốc NIA Richard J. Hodes cho biết: “Chúng tôi đang cố tìm hiểu quá trình lão hóa nhằm xác định tác động của việc can thiệp đối với nó. Hạn chế chế độ ăn cũng mang lại nhiều lợi ích đối với sức khỏe cho các loài động vật có vú. Nghiên cứu đối với các chất có tác dụng bắt chước chế độ ăn hạn chế như resveratrol gây được sự quan tâm lớn. Resveratrol có công dụng đáng kể đối với động vật, bao gồm cả chuột thí nghiệm. Nó bắt chước một vài công dụng nhưng không phải tất cả của việc hạn chế calo. Tác dụng của nó đối với con người hiện vẫn đang trong quá trình nghiên cứu”.


Kết quả quan trọng của nghiên cứu chính là resveratrol có thể phòng ngừa suy giảm chức năng tim mạch liên quan đến béo phì và lão hóa ở chuột được xác định qua một vài thông số. Tỉ lệ cholesterol giảm đáng kể ở chuột không béo phì 22 tháng tuổi sau 10 tháng điều trị với resveratrol, mặc dù tỉ lệ triglyceride chỉ có xu hướng giảm nhẹ, không đáng kể. Hơn nữa, động mạch chủ của cả chuột béo phì và không béo phì 18 tháng tuổi được điều trị với resveratrol họat động chức năng tương đối tốt hơn những con chuột không được điều trị. Resveratrol cũng giảm nhẹ các hiện tượng viêm nhiễm ở tim.

Bên cạnh bổ trợ chức năng tim mạch, các nhà khoa học nhận thấy resveratrol có rất nhiều tác động tích cực đối với các hiện tượng liên quan đến lão hóa ở chuột:

- Chuột được điều trị resveratrol có xương chắc hơn, được xác định nhờ độ dày, thể tích, hàm lượng khoáng chất cũng như mật độ và độ mềm dẻo cao hơn so với nhóm chuột điều khiển không được điều trị.

 
- Đối với chuột 30 tháng tuổi, chuột được điều trị resveratrol có tỉ lệ mắc bệnh đục nhân mắt thấp hơn – loại bệnh có tỉ lệ tăng cao cùng tuổi tác ở nhóm chuột điều khiển. 

- Resveratrol tăng cường tính cân bằng cũng như khả năng phối hợp họat động ở chuột già. Các nhà khoa học nhận thấy sự cải thiện đáng kể trong họat động ở chuột 21 đến 24 tháng tuổi so với những con 15 tháng tuổi được điều trị resveratrol nhưng hiện tượng này không xảy ra ở chuột không được điều trị. 


- Resveratrol phần nào bắt chước tác động của việc hạn chế chế độ ăn đối với các dữ liệu biểu hiện gen của mô mỡ, mô cơ xương và mô gan ở chuột. 


- Cùng với việc xác định hiệu quả của resveratrol đối với sức khỏe của chuột, các nhà khoa học cũng đồng thời tìm hiểu công dụng của resveratrol đối với tuổi thọ.

De Cabo cho biết: “Chúng tôi nhận thấy trong khi chất lượng cuộc sống được resveratrol cải thiện thì hợp chất này lại không có tác động đáng kể đối với sự tồn tại hay độ dài tối đa của cuộc đời ở chuột có bữa ăn theo tiêu chuẩn, so với những con có cùng chế độ ăn mà không có resveratrol”.

  

Resveratrol không có tác dụng đáng kể đối với tuổi thọ của động vật có chế độ ăn đạt chuẩn; từ đó cho thấy sự can thiệp của resveratrol không ảnh hưởng đến quá trình lão hóa về cơ bản. Chuột có chế độ ăn nhiều calo không chứa resveratrol có tuổi thọ ngắn nhất trong khi chuột có chế độ ăn xen kẽ sống thọ nhất bất kể có được điều trị resveratrol hay không. Tuy nhiên, với chuột có chế độ ăn nhiều calo, tuổi thọ trung bình và tối đa tăng ở những con được điều trị resveratrol so với nhóm chuột điều khiển.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy hiệu quả của resveratrol đối với tuổi thọ hoàn toàn không đi kèm với biến đổi trong trọng lượng cơ thể, điều đó cho thấy chuột có chế độ ăn nhiều calo có chứa resveratrol không nhất thiết phải giảm cân nhưng có tuổi thọ cao hơn và khỏe mạnh hơn những con cùng chế độ ăn nhiều calo không chứa resveratrol. Họ suy xét rằng tình trạng tim mạch được cải thiện cũng như giảm mỡ trong gan có thể góp phần làm tăng tuổi thọ của chuột được điều trị resveratrol.

Vẫn còn rất nhiều điều phải nghiên cứu trước khi resveratrol được khuyến khích sử dụng đối với con người. Câu hỏi muôn thuở về tính an toàn cũng như hiệu quả sinh học đối với con người vẫn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Sinclair nói: “Chúng ta đang học được rất nhiều về hiệu quả của resveratrol đối với sức khỏe và sự tồn tại của động vật có vú. Các nghiên cứu kế tiếp về các chất bắt chước hạn chế calo như resveratrol có thể sẽ vạch ra con đường nghiên cứu dược phẩm mới nhằm điều trị căn bệnh lão hóa”.


Bên cạnh các nhà khoa học thuộc NIA và đại học Y Harvard còn có các nhà nghiên cứu thuộc các viện và học viện sau: Đại học Y New York, Valhalla, New York; Đại học Michigan, Ann Arbor; Đại học Sydney tại Australia; Đại học Thomas Jefferson, Philadelphia; Đại học California, San Diego, La Jolla; Bệnh viên phẫu thuật đặc biệt, New York; Đại học Cincinnati, bang Ohio; Đại học Trung tâm khoa học sức khỏe Texas tại San Antonia và Bệnh viện VA Audie Murphy, San Antonio, Texas; Đại học Universidad Pablo de Olavide, Sevilla, Tây Ban Nha; Trung tâm nghiên cứu y sinh Pennington, Baton Rouge, La.; Đại học Washington, Seattle; và Sirtris Pharmaceuticals of Cambridge, Mass. – công ty được tác giả Sinclair đồng thời là đồng lãnh đạo đại học Harvard thành lập.


De Cabo là nhà khoa học của Chương trình nghiên cứu nội bộ thuộc NIA. Ngoài ra, nghiên cứu cũng được NIA tài trợ chính, bên cạnh đó còn có Viện khoa học y khoa quốc gia, Viện tim, phổi, máu quốc gia, Viện phát triển con người và sức khỏe trẻ em quốc gia, Viện mắt quốc gia, và viện Các bệnh da liễu, cơ xương và viêm khớp quốc gia. Quỹ nghiên cứu y học Ellison, Hiệp hội tim Hoa Kỳ, Chính phủ Australia cùng với Chính phủ Tây Ban Nha, Paul F. Glenn cùng Phòng thí nghiệm Cơ chế sinh học của quá trình lão hóa Paul F. Glenn cũng hỗ trợ cho các thành viên thuộc nhóm nghiên cứu.
 
(Theo ScienceDaily)

Ngày 15/10/2012 (Sưu tầm)

Hợp chất Resveratrol trong rượu vang đỏ rất có lợi cho sức khỏe

Lợi ích của đồ uống có cồn đều gắn với liều lượng. Ở mức thấp đến mức vừa phải – đặc biệt là đối với rượu vang đỏ - sẽ giúp giảm mọi nguyên nhân gây tử vong. Trong khi đó nếu uống quá nhiều sẽ khiến nhiều cơ quan bị tổn hại.

Một bài viết tổng hợp các phát hiện gần đây về chất polyphenol của rượu vang đỏ, đặc biệt là chất resveratrol, sẽ được công bố trên số ra tháng 9 với tiêu đề Tác hại của rượu: Các nghiên cứu thử nghiệm và lâm sáng, bài báo cũng được đăng tải trên Early View.
Lindsay Brown – phó giáo sư tại Trường Khoa học Y sinh học thuộc Đại học Queensland đồng thời là tác giả phản hồi của nghiên cứu – cho biết: “Các bài viết về lợi ích của rượu vang đỏ đều đã có gần 2 thập kỷ nay. Phương tiện truyền thông đại chúng đã tạo nên một câu chuyện gần gũi hơn về nghịch lý nước Pháp vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên các nghiên cứu về tác động của resveratrol – một trong những thành phần hoạt tính – đều không được biết tới cho đến khi nghiên cứu tiến hành vào năm 1997 cho thấy nó có tác dụng phòng ngừa ung thư. Điều này đã làm nảy sinh mối quan tâm lớn đối với hợp chất này”.
Rượu vang đỏ có chứa một hỗn hợp phức tạp các hợp chất hoạt tính sinh học, trong đó có flavonol, monomeric và polymeric flavan-3-ols, anthocyanins, axit phenolic và resveratrol. Brown cho biết một vài trong số các hợp chất kể trên, đặc biệt là resveratrol, có lợi cho sức khỏe.
Bà Brown cho biết: “Lợi ích của nó rất đáng kể, giúp phòng ngừa ung thư, bảo vệ tim và não, giảm các bệnh liên quan đến tuổi tác ví dụ như chứng sưng viêm, tiểu đường, béo phì và nhiều bệnh khác. Từ lâu người ta đã đặt ra câu hỏi tại sao một hợp chất đơn giản như thế lại có những hiệu quả to lớn này nhưng câu trả lời đang dần hiện rõ cùng với khám phá về con đường mà họ enzyme sirtuin áp dụng để điều tiết quá trình sản xuất các thành phần tế bào thông qua nhân. Có phải resveratrol là hợp chất duy nhất có mang những đặc điểm này? Dường như không hẳn thế. Các hợp chất khác trong rượu vang và các sản phẩm tự nhiên như curcumin cũng có tác động tương tự. Tuy nhiên chúng ta biết đến resveratrol nhiều hơn các hợp chất khác”.
Stephen Taylor – giáo sư khoa dược lý thuộc Đại học Queensland – đồng tình rằng resveratrol là “hợp chất của ngày”. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng rượu vang đỏ vừa mang tính thần bí vừa là biểu trưng lịch sử ở phương tây. Tất nhiên một số thú vui phải gắn liền với việc uống rượu vang, tất cả đều mang lại lợi ích về tâm lý cho con người. Không nhiều người trong số chúng ta có thể hoặc sẽ ăn một vài chén việt quất mỗi ngày trong suốt nhiều năm, nhưng nếu chúng ta thực hiện một nghiên cứu trong một thập kỷ thì sẽ thấy chúng có tác động tương đương.”
Các đặc điểm chính trong bài tổng hợp bao gồm:
Resveratrol có tiềm năng liệu pháp đối với việc phòng ngừa ung thư cũng như bảo vệ tim mạch. 
Brown nói: “Nghe có vẻ mâu thuẫn khi nói rằng một hợp chất cũng có thể bảo vệ tim bằng cách ngăn tế bào bị tổn hại, thế nhưng lại phòng ngừa ung thư bằng cách khiến tế bào chết. Lời giải thích phù hợp nhất cho nó vẫn đang được nghiên cứu chứng minh ở nhiều cơ quan nội tạng. Nồng độ thấp đã kích hoạt các cơ chế tồn tại của tế bào trong khi đó nồng độ cao lại bật tín hiệu tự hủy cho những tế bào này.
Resveratrol hỗ trợ phòng ngừa các chứng rối loạn liên quan đến tuổi tác, ví dụ như các bệnh về trí nhớ, sưng viêm, tiểu đường và bệnh tim mạch.
Theo bà Brown, “lời giải thích đơn giản nhất là resveratrol bật tín hiệu cho đường tồn tại của tế bào, phòng ngừa tổn hại cho tế bào. Các biện pháp mới sẽ hỗ trợ cho resveratrol, bao gồm việc loại bỏ chất ôxi hóa phản ứng trong cơ thể và tăng cường cung cấp máu cho tế bào”.
Liều resveratrol thấp có thể tăng khả năng sống sót cho tế bào, đây là một cách để bảo vệ thần kinh cũng như tim mạch; trong khi đó liều lượng cao lại khiến tế bào tử vong.
“Sự khác biệt mấu chốt có lẽ là kết quả của việc kích hoạt họ enzym sirtuin trong nhân. Kích hoạt ở mức thấp sẽ đảo ngược các biến đổi liên quan đến tuổi tác, trong khi đó kích hoạt ở mức cao lại đẩy mạnh quả trình tế bào tự hủy theo chu kì. Những biến đổi tương tự cũng quan sát thấy ở việc sử dụng resveratrol liều thấp và liều cao: liều thấp giúp bảo vệ tế bào, giảm tổn hại; còn liều cao ngăn ngừa ung thư”.
Các nghiên cứu khoa học hiện đại cũng đang bắt đầu giải thích những báo cáo trong vòng 200 năm qua rằng uống rượu vang cải thiện sức khỏe. “Có câu nói rằng: tự nhiên là kho tàng hợp chất, nhưng nghiên cứu với resveratrol đã chứng minh rằng nó đúng. Chúng ta cần phải hiểu sâu hơn về các loại hợp chất tồn tại trong tự nhiên cũng như phải xác định tiềm năng của chúng đối với sức khỏe”.
Taylor thêm rằng: “Có một điểm đặc biệt cần phải bổ sung. Resveratrol bị khử phần lớn hoạt tính bởi ruột hoặc gan trước khi nó đến được mạch máu, tại đó nó mới phát huy công dụng. Do vậy, phần lớn resveratrol có trong rượu vang uống không đến được với hệ tuần hoàn. Thú vị là sự hấp thụ qua màng nhầy trong miệng có thể mạnh hơn tới gần 100 lần so với mức độ của máu nếu chúng ta nhâm nhi từ từ chứ không uống ừng ực. Tất nhiên là chúng ta chưa chắc chắn cách uống có quan trọng hay không nhưng những vấn đề như thế này hoàn toàn là có thật trong khi phần lớn chúng ta lại thờ ơ”.





 Ngày 15/10/2012 (Sưu tầm)

Các lợi ích y dược của chất resveratrol trong rượu vang đỏ




Chất chống oxi-hoá resveratrol có nhiều trong rượu vang đỏ làm chậm sự suy thoái do tuổi già của các bộ phận trong cơ thể,--- nhất là  chức năng tim mạch--- của các chuột đươc nuôi theo chế độ ăn uống bình thưởng 



Thí nghiệm vể resveratrol đã đươc Viện National Institute on Aging (NIA).thực hiện trên chuột. Các con chuột đươc chia làm nhiều nhóm: một nhóm ăn uống bình thường, một nhóm theo chế độ ăn uống nhiểu calori, và một nhóm chỉ đươc cho ăn cách nhật.. Trong mỗi nhóm, một số chuột đươc cho ăn thêm resveratrol với liều lượng thấp hoặc cao.

Kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí Cell Metabolism chứng tỏ là chất resveratrol có một số những hiệu ứng tương tự như chế độ ăn uống “giới hạn calori” (restricted calories) , một phương cách tốt nhất hiện nay để tối thiểu hoá ảnh hưởng của tuổi già và gia tăng tuổi thọ

Bác sĩ Richards Hodes, giám đốc NIA, nói “ Chất resveratrol có ảnh hưởng đáng kễ lên sức khoẻ của chuột. Riêng những lợi ích của resveratrol giống như chế độ ăn uống “giới hạn calori” cũng đã đủ làm cho chúng ta chú ý nhiều đến chất này
Nghiên cứu đã cho thấy là chất resveratrol đã ngăn chặn đươc sự suy thoái chức năng tim mạch của chuột gây ra bởi tuổi già và bệnh mập phì. Sau mười tháng trị liệu với resveratrol, cholesterol toàn phẩn của các chuột  22 tháng tuổi và không bị mâp phì đã giảm một cách đáng kể. Ngoài ra, động mạch chủ (aorte) của các chuột 18 tháng tuổi, mập phì hay bình thường, đươc cho dùng resveratrol ,đều hoạt động tốt hơn các chuột khác. Sau hết chất resveratrol đã giảm các trường hợp viêm tim. Ngoài các lợi ích vể tim mạch , chất resveratrol còn giúp cho xương của chuột cứng cáp hơn so với chuột bình thường., và cải thiện khả năng giữ cân bằngvà tập trung của các chuột  già. Tuy nhiên  các nhà khoa học không nhận thấy ảnh hưởng đáng kể của resveratrol trên tuỗi thọ
Trên đây là các kết quả thâu lươm được qua các nghiên cứu trên chuột.. Các nhà khảo cứu cho biết chưa thể áp dụng ngay và trực tiếp các phát hiện này lên con ngưởi vì sức khoẻ của chúng ta tùy thuộc vào nhiểu yếu tố khác hẳn với các yều tố của súc vật nuôi trong phòng thí nghiệm.
 



Ngày 15/10/2012 (Sưu tầm)
Resveratrol là gì? Công dụng của nó ra sao?

Rất nhiều người cao tuổi khi truyền thụ bí quyết sống lâu đều nói: “Ăn nho đừng bỏ vỏ.”

Nhà khoa lớn người Pháp Pasteur từng nhận xét: “Rượu nho là thức uống tốt nhất, vệ sinh nhất.”


Những lời nói của họ đều có căn cứ khoa học, bởi vì trong vỏ quả nho và trong rượu nho đều có chứa một loại chất rất quan trọng – Resveratrol.


Resveratrol? Nó là chất gì? Nó là loại vật chất hoạt tính sinh vật rất cao, chứa nhiều phenols tự nhiên, có khả năng ngăn chặn mật độ Oxy hoá của Protein béo. Các nhà nông nghiệp học người Pháp phát hiện ra rằng, quả nho mốc bị hoại tử có một bộ phận hoàn toàn không bị tổn hại. Nguyên nhân là do bộ phận này có chứa hàm lượng Resveratrol rất cao, có khả năng ngăn chặn sự lan rộng của phần bị hoại tử.


Đối với con người, tác dụng tích cực của Resveratrol càng không thể đếm được. Nó có thể ngăn chặn sự ngưng tụ bất thường của máu, mở rộng động mạch, huyết quản, cải thiện tuần hoàn, có khả năng phòng tránh bệnh tim, bệnh xơ cứng động mạch, bệnh mỡ máu cao. Ngoài ra, nó còn có tác dụng kháng khuẩn, chống Oxy hoá, xoá bỏ gốc tự do, kháng chứng nghẽn mạch máu, kháng viêm nhiễm, chống dị ứng v.v…


Qua nghiên cứu cho thấy, trong 72 loại thực vật có chứa Resveratrol như quả dâu, lạc, nho, nha đam, quả việt quất, cherry, trà xanh v.v.. thì hàm lượng Resveratrol có trong nho là cao nhất. Do vậy, các loại thực phẩm được làm từ nho rất được các nhà dinh dưỡng quan tâm. Họ khuyên mọi người: nếu muốn duy trì cơ thể khoẻ mạnh thì mỗi ngày nên uống một, hai ly rượu nho.


Người Pháp và những người ở các nước Châu Âu khác rất nổi tiếng vì thích ăn những thức ăn có nhiều mỡ và có hàm lượng colesterol cao. Song bí mật của nước Pháp mà mọi người Đều biết, tỷ lệ nhiễm bệnh về máu ở pháp lại là thấp nhất trong xã hội phương tây. Nguyên nhân vì người Pháp uống rất nhiều rượu vang, các chuyên gia khoa học phát hiện trong rượu nho có tồn tại một chất hoạt tính với tên gọi Resveratrol, có tác dụng Điều tiết mỡ máu. Trong mội bình rượu nho có khoảng 1-1,25g Resveratrol.


Tìm hiểu chất Resveratrol
Câu chuyện nghịch lý là người Pháp ăn thịt và chất béo nhiều, nhưng lại ít bị nguy cơ bệnh tim mạch hơn người Mỹ. Sau khi điều tra, người ta mới vỡ lẽ là người Pháp thường hay uống rượu vang đỏ trong đó có chất resveratrol ở vỏ trái nho. Resveratrol là một phytoalexin là chất chống oxy hóa không thuộc nhóm flavonoid.
Nho cũng chứa anthocyanin và những hợp chất phenol khác. Anthocyanin, có khuynh hướng là polyphenol chính của nho đỏ, trong khi flavan-3-ol (như catechin) là hợp chất polyphenol nhiều hơn trong nho trắng. Hàm lượng phenol toàn phần, chỉ số cường độ chống oxy hóa của thực phẩm, cao hơn trong trái nho đỏ do tỷ lệ anthocyanin trong da nho đỏ cao hơn ở trái nho trắng. Chính anthocyanin đã dẫn các nhà khoa học tới định nghĩa tính chất trong sức khỏe con người. Lượng phenol trong vỏ nho biến đổi tùy theo thành phần đất trồng, khí hậu, nguồn gốc địa lý, thực hành trồng tỉa hay phơi nhiễm với bệnh như nhiễm nấm.
Rượu nho đỏ giúp cho sức khỏe nhiều hơn nho trắng vì có nhiều hợp chất có ích hiện diện từ vỏ trái nho, và chỉ có rượu nho đỏ lên men với da trái nho. Thời gian lên men của rượu nho khi tiếp xúc với vỏ trái nho là yếu tố quyết định hàm lượng resveratrol. Thông thường, rượu nho đỏ không phải giống Muscadin chứa khoảng 0,2 - 5,8 mg resveratrol/lít, tùy theo giống nho, vì lên men với vỏ trái nho, cho phép rượu hấp thu resveratrol. Trái lại, rượu nho trắng chứa hàm lượng resveratrol thấp hơn vì chỉ lên men sau khi loại bỏ vỏ nho. Rượu nho sản xuất từ giống nho Muscadin có thể chứa hơn 40 mg resveratrol/ lít. Trong vỏ nho Muscadin, acid ellagic, myricetin, quercetin, kaemferol và trans-resveratrol là những hợp chất polyphenol chính. Trái với kết quả trước, ellagic acid chứ không phải resveratrol là thành phần polyphenol chính của nho Muscadin.
Ngoài vỏ nho, còn tìm thấy lượng lớn trong dược liệu cổ truyền Nhật và Trung Quốc như Củ cốt khí (Polygonum cuspidatum), và có mặt trong Bưởi đỏ, Đậu phộång, một số Dâu dại như Mulberry, Blueberry và Bilberry. Dâu tằm… resveratrol được tổng hợp trong tế bào thảo mộc khi bị nấm tấn công hay khi thiếu chất dinh dưỡng. Trans-resveratrol là dạng hoạt chất.
Năm 1997 nghiên cứu báo cáo tiềm năng chống ung thư của trans-resveratrol khiến nhiều công ty thực phẩm chức năng mọc ra để sản xuất chất này. Những nghiên cứu phụ, thực hiện trên tế bào cấy và Ruồi trái cây, Viên trùng, cá, động vật có xương sống, cho thấy hoạt tính chống ung thư, và gợi ý trans-resveratrol cung cấp thêm lợi ích chống tiểu cầu, chống lão hóa, chống béo mập cũng như tính tăng cường hệ miễn dịch. Trong những nghiên cứu này, dùng resveratrol giảm viêm sụn thú vật, thúc đẩy ức chế cholesterol trong vi khuẩn, ức chế sinh sản tế bào T, xúc tiến chương trình tự hủy các loại tế bào u bướu, và đưa đến kéo dài tuổi thọ của mẫu Ruồi trái cây, Viên trùng, nấm men. Những tác động này khiến người ta nhắm vào lợi ích cải thiện kết quả bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường, xúc tiến dùng hóa liệu ngừa ung thư, giúp giảm cân và phòng ngừa bệnh Alzheimer, và kéo dài tuổi thọ con người nhờ resveratrol.
Một công thức resveratrol thoa ngoài da có tiềm năng chống lão hóa da mới được báo cáo, và ngày càng nhiều báo cáo ứng dụng resveratrol xuất hiện. Tuy nhiên, chứng cứ lâm sàng trên con người về hiệu quả của resveratrol vẫn còn thiếu.

Tiềm năng và cơ chế tác dụng
Chứng cứ ngày càng nhiều qua các nghiên cứu phân tử, tế bào và thú vật gợi ý nhiều cơ chế tác dụng hỗ trợ cho tính chất phát huy sức khỏe của resveratrol. Tuy nhiên, một số dữ liệu lại trái ngược nhau. Thí dụ, nghiên cứu in vitro tìm thấy resveratrol vừa tăng vừa giảm chức năng miễn dịch ở tế bào con người. Mặc dầu resveratrol có thể làm chậm lại phát triển mạch máu, chất này cũng cho thấy làm chậm lành vết thương.

Tính chất bảo vệ tim

Tiềm năng bảo vệ tim của resveratrol liên quan với nhiều cơ chế. Ở mẫu thú vật thiếu máu cục bộ - tưới máu trở lại (ischemia-reperfusion), resveratrol giảm peroxyt hóa lipid, giảm hư hại cơ quan và cải thiện thiếu máu cục bộ cơ tim. In vitro, resveratrol cho thấy tính chống viêm mạnh hơn aspirin và ibuprofen, ức chế nitric oxid ở đại thực bào bị kích hoạt, cải thiện chức năng ty lạp thể, và giảm interleukin 1 (IL-1), IL-8 và yếu tố tăng bầy đại thực bào có hạt (granulocyte macrophage colony-stimulating factor).

Tác dụng miễn dịch, chống tiểu cầu, chống viêm và chống ung thư

Resveratrol có thể đàn áp tế bào T sinh sản, là nguyên nhân sinh phản ứng miễn dịch. Resveratrol ức chế tăng trưởng u bướu buồng trứng, ruột già và vú; tăng trưởng cấp dòng tế bào bạch cầu; ngăn ngừa tế bào ung thư gan khỏi xâm nhập mô địa phương - tất cả đều là cơ chế tiềm tàng để giảm nguy cơ ung thư. Tính chất chống tiểu cầu có vẻ như là kết quả của resveratrol giảm kết dính tiểu cầu và làm cho mạch máu giãn ra. Trong mẫu thú vật, resveratrol thấy ngăn giảm glutathione liên quan đến amyloid peptid, bảo vệ hư hại do oxy hóa gây ra bởi peptid, và giảm thành lập mảng vữa trong não - tất cả đóng góp vào cơ chế bảo vệ chống bệnh Alzheimer.

Tác dụng chống lão hóa

Người ta chú ý nhiều về tiềm năng của resveratrol cải thiện hoạt động não bộ và sức khỏe tim mạch - do đó vội vã bảo chất này giống như Sâm chống lão hóa mà chưa chứng minh. Một số quan sát tính bảo vệ sức khỏe não bộ do liên quan giữa uống rượu chát đỏ và tỷ số sinh bệnh sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer thấp, gợi ý resveratrol có lợi chống thoái hóa thần kinh. Trong nhiều nghiên cứu, người ta thấy resveratrol bắt chước tác dụng giới hạn năng lượng thông qua kích hoạt sirtuin, làm tăng tuổi thọ chuột nhắt và động vật không xương sống bằng cách cải thiện chức năng ty lạp thể, tăng nhạy cảm với insulin, và kiểm soát hoạt động của những yếu tố phiên mã. Kích hoạt Sirtuin - một khả năng của động vật có vú, có thể đóng góp vào tính chất chống sinh amyloid của resveratrol như là cơ chế tiềm tàng để cải thiện tuổi thọ của con người. Resveratrol loại thải amyloid peptid não in vitro được xem là cơ chế cải thiện chức năng nhận thức ở người. Những cơ chế tương tự cung cấp vai trò căn bản trong việc phòng ngừa bệnh liên quan đến tuổi tác.

Resveratrol giảm hư hại oxy hóa cho tinh dịch người đông lạnh

Resveratrol, một polyphenol quan trọng trong rượu chát đỏ - giảm hư hại tinh dịch người đông lạnh, theo một nghiên cứu ở Brasil. Resveratrol đã được biết làm giảm sự thoái hóa thần kinh, giảm sinh u bướu và xơ vữa động mạch, theo báo cáo của báo Fertility và Sterility ngày 3/2/2010.
Trong nghiên cứu này, bác sĩ Fabio F. Pasqualotto ở Đại học Caxia do Sul và cộng sự, ủ mẫu tinh trùng với resveratrol hay không, trước khi cho đông lạnh. Tinh trùng từ 10 người đàn ông khỏe mạnh có khả năng sinh con và 20 người không thể sinh con.
Ở mức căn bản, những người đàn ông không thể có con có nồng độ tinh trùng thấp và ít di chuyển, và thỏa mãn tiêu chuẩn Kruger về hình dáng, so với đàn ông có khả năng sinh con. Mẫu tinh trùng đàn ông không con cũng có mức hoạt động thấp superoxid dismutase (SOD) và catalase và hư hại lipid cao hơn.
Nhưng sau khi ủ với resveratrol, hoạt động SOD tăng trong mẫu tinh trùng từ đàn ông vô sinh (không thay đổi ở mẫu tinh trùng đàn ông có khả năng có con). Hơn nữa, resveratrol ngăn ngừa hư hại lipid do bảo quản gây ra, một tác dụng không phụ thuộc liều.
Resveratrol không cải thiện chuyển động tinh trùng gây ra bởi bảo quản, và cũng không tác động lên nồng độ và hình dáng tinh trùng.
Có vài chất chống oxy hóa có thể giúp bệnh nhân cải thiện tình trạng vô sinh, trong đó có resveratrol. Sử dụng chất chống oxy hóa có thể giúp bệnh nhân cải thiện phẩm chất tinh dịch ngay cả khi tinh dịch bị đông lạnh, theo lời bác sĩ Pasqualotto.
Hai vấn đề đặt ra cho resveratrol là:
- Dùng dạng nào, nồng độ bao nhiêu để hấp thu tốt nhất và có kết quả nhất.
- Nên dùng nguồn resveratrol nào hợp với nhu cầu kỹ nghệ tại Việt Nam mà vẫn bảo đảm hiệu quả và an toàn cho người bệnh.

Nồng độ, công thức, liều lượng và độc tính

Nồng độ khác nhau trong sản phẩm: nồng độ resveratrol trong thức ăn và nước uống biến đổi tùy theo sản phẩm. So sánh trọng lượng, đậu phộång chỉ có một nửa lượng resveratrol so với rượu chát đỏ. Nồng độ resveratrol trong Cranberry và nước Bưởi ngang nhau. Blueberry cao gấp đôi Bilberry, nhưng điều kiện thổ nhưỡng khác nhau khiến nồng độ khác nhau. Nồng độ resveratrol ở những trái cây này thấp hơn nhiều so với trong Bưởi đỏ, và nấu chín càng làm giảm nồng độ cho đến 50%.
Hàm lượng trans-resveratrol trong rượu nho tùy thuộc giống nho, khí hậu và phương pháp xử lý. Rượu chát đỏ, đặc biệt làm từ nho pinot đen (5,13 mg/dL), chứa nồng độ resveratrol cao nhất và rượu nho trắng hàm lượng thấp nhất (1 - 5% của rượu chát đỏ). Ngoài ra, nho mọc ở khí hậu ẩm và lạnh có nồng độ resveratrol cao hơn là nho mọc ở khí hậu nóng và khô. Nói chung, một lượng rượu chát đỏ 120 ml cung cấp khoảng 320 mcg resveratrol (0,2 - 5,8 mg/lít).

Công thức sản xuất và liều lượng

Resveratrol hiện nay được bào chế bằng phương pháp tổng hợp và bán như chất hỗ trợ dinh dưỡng trong viên nang hay viên nén. Sản phẩm resveratrol phần chính làm từ Cốt khí củ (Japanese knotweed), ở dạng rễ khô, chứa đến 187 mg resveratrol/kg. Sản phẩm thực phẩm chức năng bán ở các hiệu thuốc và hiệu bán chất hỗ trợ dinh dưỡng với liều từ 15 đến 600 mg mỗi viên, và nhà sản xuất đề nghị dùng liều cao như là có cường độ tác dụng cao, nhưng chưa có chứng cứ hỗ trợ cho liều khuyên dùng cho resveratrol. Ở người, sinh khả dụng đường uống của resveratrol dạng viên bị chất vấn, vì ít hơn 5% sản phẩm hiện diện trong huyết tương sau khi uống vào và chuyển hóa nhanh trong gan và ruột. Ngay cả sau khi uống rượu chát đỏ, mức resveratrol trong huyết thanh cũng không cho thấy đủ để tạo ra tác dụng sinh lý thấy ở thú vật và mẫu tế bào. Những kết quả trên đưa ra câu hỏi, liệu resveratrol, rượu nho đỏ hay kết hợp hoạt chất (kể cả procyanidin) trong rượu chát đỏ có lợi thật cho sức khỏe không?
Nói tóm lại, người ta chưa biết đủ hiệu quả lâm sàng và tiềm năng gây độc hại khi dùng resveratrol như là chất hỗ trợ dinh dưỡng.

Độc tính và chống chỉ định
Cơ quan kiểm soát thực dược phẩm Hoa Kỳ cũng như châu Âu không đưa ra khuyến cáo giới hạn tối đa tiêu thụ để tránh nhiễm độc resveratrol. Tuy nhiên, dùng nhiều resveratrol trong rượu chát đỏ bị giới hạn vì tác dụng độc hại của rượu. Độc tính của rượu nho có vẻ thấp khi dùng ở lượng vừa phải khoảng 2 ly 120 ml cho quý ông và 1 ly 120 ml cho quý bà.
Vì tính chất chống tiểu cầu của resveratrol, bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông máu hay thuốc chống kết cụm tiểu cầu hay đang dùng dược thảo có tiềm năng tăng nguy cơ xuất huyết như tỏi, feverfew, gừng, bạch quả, sâm, nghệ phải cẩn thận khi dùng resveratrol. Ngoài ra, resveratrol đã được báo cáo tăng nhạy cảm với insulin, và phải dùng dè dặt với bệnh nhân đang dùng thuốc trị bệnh tiểu đường. Mặc dầu resveratrol là phytoestrogen yếu, chất này có tính hỗn hợp đồng vận và đối kháng hoạt động của estrogen, và không nên dùng resveratrol cho phụ nữ ung thư phụ thuộc estrogen.
Nên dùng nguồn resveratrol nào?
Qua những thông tin trên, ta thấy khí hậu ở Việt Nam không lý tưởng để trồng nho sản xuất resveratrol. Pháp là nước đầu tiên đưa ra quy trình sản xuất resveratrol từ nho, nhưng giá thành không biết nước nào rẻ nhất mà vẫn bảo đảm phẩm chất, vì có thể bị sinh thái làm ô nhiễm.

CÁC CÔNG DỤNG CHÍNH CÙA RESVERATROL:
-         Hỗ trợ điều trị trong các trường hợp viêm nhiễm, ức chế sự phát triển của khối u.
-         Điều hòa đường huyết.
-         Tăng sức chịu đựng và dẻo dai trong hoạt động thể thao.
-         Giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer, chứng đột quỵ, bệnh tim mạch.
-         Bảo vệ tế bào khỏi tác hại của các hóa chất phóng xạ.


Resveratrol được nghiên cứu trong quá trình lão hóa, các bệnh tim mạch, và béo phì. Trong thiên nhiên, Resveratrol có mặt trong rượu vang, và hơn 70 loài thực vật trong đó có nho, lạc (arachide) và cacao. Resveratrol không ngừng gây ngạc nhiên và tạo hứng thú cho các nhà nghiên cứu. Trong vòng 20 năm, reseveratrol (thuộc nhóm polyphenol) được nghiên cứu trong hơn 3.300 ấn bản khoa học. Trước hết, nhờ tính chất chống oxy hoá nên resveratrol được dùng để bảo vệ trong các bệnh tim mạch và các bệnh ung thư. Resveratrol được hấp thu khi sử dụng rượu vang đều đặn, điều này giải thích cho nguyên nhân vì sao lại có tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp ở những người có chế độ ăn uống giàu mỡ đường tại Pháp. Những nghiên cứu khác cũng phát hiện thấy lợi ích của resveratrol lên tuổi thọ và các bệnh thoái hoá thần kinh, bệnh đái tháo đường, chứng béo phì.
Nghiên cứu mới nhất tại Pháp được công bố trong tạp chí BMC Physiology, tiến hành trên động vật linh trưởng, cho kết quả chưa từng thấy trước đây, khi chứng tỏ rằng resveratrol làm giảm một cách đáng kể sự tăng cân vào mùa đông do làm tăng sự tiêu hao năng lượng và làm cắt cơn đói. Cho đến nay, phần lớn các nghiên cứu được tiến hành trên động vật gặm nhấm được làm béo phì bằng biến đổi di truyền hoặc bằng chế độ ăn giàu calo. Nhóm nghiên cứu của Fabienne Aujard (CNRS, Museum national d’histoire naturelle, Brunoy) đã chọn nghiên cứu các microcèbe, những động vật linh trưởng nhỏ, nặng khoảng 100g, có sinh lí học đặc biệt. Những động vật họ vượn cáo, có một nhịp theo mùa rõ rệt, chúng có trọng lượng tăng gần như gấp đôi vào mùa đông do sự tích luỹ mỡ từ từ. Ngoài ra, chúng là động vật biến nhiệt, nghĩa là nhiệt độ nội tại của chúng có thể giảm rất mạnh, do đó giúp tiết kiệm năng lượng. Với tuổi thọ từ 8 đến 10 năm, những động vật này càng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về quá trình  lão hóa, đặc biệt là ở não bộ.

NHỮNG KẾT QUẢ THUYẾT PHỤC
Vào mùa đông, khi mà các loài linh trưởng nhỏ có xu hướng tích trữ mỡ, tiến hành trên 6 microcèbe với chế độ dinh dưỡng giàu resveratrol: 200mg/kg/ngày, liều dùng này cao hơn liều dùng bình thường dành cho người. Tiến hành theo dõi cẩn thận trọng lượng, nhiệt độ cơ thể, việc cung cấp và tiêu hao năng lượng. Các kết quả rất có sức thuyết phục. “Sự lên cân, thường là một gam mỗi ngày vào thời kỳ này, đã được chia cho năm”, Fabienne Aujard đã kể lại như vậy. Một cán cân hơi dương tính, được giải thích do sự gia tăng rõ rệt quá trình tiêu hao năng lượng (chuyển hóa lúc nghỉ ngơi tăng 29%) và do sự giảm quá trình cung cấp năng lượng (13%, từ tuần lễ thứ ba). Các nhà nghiên cứu cũng nêu lên những biến thiên nhỏ nhất về nhiệt độ cơ thể của các microcèbe, mà không giảm hoạt động vật lý của chúng, trong khi ở điều kiện bình thường chúng ở trong trạng thái đờ đẫn. “Chúng tôi đã chờ đợi sự gia tăng các tiêu hao năng lượng, đã được mô tả trên chuột. Điều đã làm cho chúng tôi ngạc nhiên, đó là tác dụng lên sự no nê (satiété), thuộc loại cắt cơn đói (coupe-faim), hiện tượng này trước đây không được biết đến”, Fabienne Aujard đã nhấn mạnh như vậy.
Công trình nghiên cứu của Brunoy chưa thực sự hoàn tất. Trên cùng các con linh trưởng này, họ khảo sát các tác dụng lâu dài của resveratrol lên các bệnh lý liên quan đến tuổi tác và tuổi thọ của các động vật này.

TÁC DỤNG CẮT CƠN ĐÓI
“Những kết quả này rất là lý thú, đặc biệt là tác dụng cắt cơn đói (effet coupe-faim), nhưng cần phải biết xem hiệu quả này có hiện hữu với những liều lượng sinh lý hơn của resveratrol hay không”, GS Norbert Latruffe (unité Inserm 866 “ lipides nutrition et cancers”, Dijon), nghiên cứu các cơ chế tác dụng của resveratrol, đặc biệt trong quá trình viêm và ung thư (cancérogenèse), đã nhận xét như vậy. GS Johan Auwerx, thuộc Trường đại học Bách khoa liên bang Lausane, cũng tiến hành các công trình trên mô hình các động vật linh trưởng này. “Đó là một bước tiến nữa của loài người”. Cách đây vài năm, nhà nghiên cứu này đã xác định được rằng các tính chất chống đái đường và chống béo phì của resveratrol được liên kết với sự hoạt hóa của enzyme (SIR1) thuộc họ các sirtuines. Thật vậy, resveratrol tác dụng bằng cách kích thích các ty lạp thể (trung tâm năng lượng của tế bào), do đó cơ thể bắt đầu đốt cháy các dự trữ năng lượng của mình. Sau khám phá này, GS Auwerx đã xác định được một phân tử tổng hợp, SRT 1720, một loại super-resveratrol, đã cho những kết quả ngoạn mục trên chuột. Hiện nay, các chất hoạt hóa của sirtuines đang được thử nghiệm trên người trong nhiều bệnh lý, trong đó có bệnh đái tháo đường và các bệnh tim-mạch. Thay vì sử dụng các thuốc điều trị, từ nay GS Auwerx tìm cách dự kiến sử dụng bổ sung dinh dưỡng có chất căn bản là resveratrol. Nhưng việc này còn rất lâu mới có thể tiến hành. “Thành phần cuối cùng chưa được xác định. Và theo quy định mới của Châu Âu đối với các thực phẩm chức năng (alicament), việc phát triển này cũng phải tiến hành lâu dài như đối với việc phát triển một loại thuốc”, GS Auwerx  phát biểu.
Theo LE FIGARO (24/6/2010)


Resveratrol là một chất trong nho, dâu và rượu vang đỏ, có rất nhiều tác dụng có lợi cho sức khỏe. Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định các tính chất quý của Resveratrol.

Resveratrol là một ân nhân của nhân loại. Và nó được thấy nhiều nhất trong nho đỏ, có tên là muscadine grapes. Chất này cũng có thể tìm thấy ở nhiều loại thực vật khác, không nhất thiết phải là nho.Resveratrol làm giảm tính kháng Insulin, làm nó nhạy trở lại và khi mà các nhà khoa học đã và đang tuyên bố tiểu đường là bệnh bất trị, thì phải nói hơi lạc quan một chút là resveratrol là vị cứu tinh của hơn 150 triệu người đang khổ vì nó (90% của tiểu đường do kháng insulin). Resveratrol gia tăng tuổi thọ, sức dẻo dai bền bỉ, giúp thận tốt hơn, chống béo phì, trị cả bệnh nha chu vv.. Và biết bao người cũng khổ vì ung thư tiền liệt tuyến thì nay chính resveratrol lại giúp cho họ chống lại căn bệnh khổ sở ấy, để có cuộc sống vui vẻ chất lượng hơn.
Tác giả: Bùi Thế Trường
Resveratrol có công thức là trans 3,5,4'-trihydroxystilbene; hay 3,4',5-Stilbenetriol; hay trans-Resveratrol; hay (E)-5-(p-Hydroxystyryl) resorcinol - là một polyphenolic phytoalexin. 
Về phương diện hóa học, đó là chất stilbenoid, dẫn xuất của stilbene, là một chất không màu, tan trong benzen, tan trong rượu là 50mg/mL, không tan trong nước hay tan nhưng rất ít (~0.03 mg/mL) , nóng chảy ở nhiệt độ cao (124oC), có khối lượng phân tử (molar mass): 228.25
Nó thường dùng sản xuất thuốc nhuộm và làm chất tẩy trắng với tên thương mại gọi là diphenylethylene, toluene. Nhưng trong thiên nhiên, chất này có được là do cây tự sản sinh với sự xúc tác của một enzyme stilbene synthase.

Thường thì chất trên ở dưới hai dạng cis và trans. Nghiên cứu trong Journal Agri. Food. Chem, Lamuela Raventos 1995, dùng HLPC để phân giải cis và trans của resveratrol, thì thấy rằng khi chất resveratrol ở dạng trans lại gặp nhiệt, hoặc tia tử ngoại cực tím, thì nó chuyển sang dạng cis (Lamuela-Raventos, RM.,1995). Thật vậy, Mozzon (2007) đã đo hàm lượng cis-resveratrol trong rượu nho đỏ trung bình là 0.5 tới 1.9 mg/L, còn trong rượu nho trắng tối đa chỉ là 0.2 mg/L.

Resveratrol được tìm thấy ở nhiều cây trong thiên nhiên, mà những tính chất dễ thấy nhất của cây đó là chống nấm. Những cây chứa nhiều resveratrol như là: nho, mâm xôi, dâu tằm, mận, đậu, và các loại quả mọng bao gồm quất việt, việt quất xanh, việt quất nam. Ngoài ra nó còn được tìm thấy trong một vài loại thông như thông Scotlan và thông trắng miền đông. Jang và các cộng sự (1997) nghiên cứu về tính chống viêm rất hữu hiệu của resveratrol chiết từ cây (tham khảo: http://en.wikipedia.org/wiki/PeruvianPeruvian legume Cassia quinquangulata).
Resveratrol được thấy nhiều nhất ở các loại nho. Trong quả nho, resveratrol được thấy nhiều nhất ở vỏ và hột. Các loại nho tươi thường cho từ 50-100 µg resveratrol/gram. Còn loại nho có tên là Muscadine, thì vỏ và hột của chúng khi nghiền nát cho một hàm lượng resveratrol đậm đặc gấp trăm lần. Tuy nhiên hàm lượng resveratrol thu được từ vỏ nho thay đổi tùy theo giống nho, thổ nhưỡng nơi trồng và khả năng đề kháng nấm của chúng. Nghĩa là giống nho trên nếu không bị nấm thì hàm lượng resveratrol cao hơn loại bị nấm. Khi nho được lên men cho hàm lượng tối đa resveratrol trong nước rượu nho.
rong nước rượu nho.
Hàm lượng trung bình resveratrol có trong rượu nho và nước giải khát (mg/L):

Rượu Muscadine                      14.1 - 40

Rượu vang đỏ (toàn cầu)          1.98 - 7.13

Rượu vang đỏ (Tây Ban Nha)  1.92 - 12.59

Nước Nho đỏ (Tây Ban NHa)             1.14 - 8.69

Rượu hoa hồng (Tây Ban Nha 0.43 - 3.52

Pinot Noir                                            0.40 - 2.0

Rượu vang trắng (Tây Ban Nha)           0.05 - 1.80

Đối với rượu nho Tuscan, thì trans-resveratrol tập trung trong 40 loại rượu Tuscan. Hàm lượng thu được trong 32 loại rượu nho đỏ từ 0.3 tới 2.1mg/L, còn trong 8 loại rượu nho trắng chỉ có 0.1mg/L.

Nếu xem bảng ghi hàm lượng resveratrol của nho Mustadine thì ta thấy rằng rượu nho Mustadine cho hàm lượng lớn nhất trong tất cả các loại nho làm rượu, cis-resveratrol trong nho Mustadine có được vào khoảng 9.2 và 31.9 mg/L, còn trans-resveratrol thì khoảng 4.9 và 5 13.4 mg/L (Mozzon,2007)s resveratrol thì trong khoảng 4.9 và 5 13.4 mg/L (Mozzon,2007)

Như trên tôi đã nói rằng trong đậu cũng có resveratrol, trong 146g đậu thô có chứa tới 0.1-0.26 mg resveratrol, còn 180g đậu nấu chín có chứa tới 0.32-1.28 mg revesratrol, 258g bơ đậu có chứa tới 0.04 - 0.13mg resveratrol. Tóm lại, đậu có hàm lượng resveratrol là 79.4ug/ounce bằng một nửa của rượu vang ̣đỏ (160 ug/ounce). Tuy nhiên, trong đậu có chứa hàm lượng acid béo bão hòa của thực vật rất cao nên đậu hay bơ đậu đều không tốt cho sức khoẻ nếu tiêu thụ nhiều. Thêm nữa, khi đậu bị nấm Aspergillus flavus xâm nhập tạo thành các bào tử làm nhiễm độc trong hạt đậu, tạo ra aflatoxins. Chính chất này gây ung thư cho một vài súc vật và có thể gây ung thư gan cho người ở vùng nhiệt đới, vì các nơi đó thường các ngũ cốc được tồn kho không kiễm soát độ ẩm đúng cách, gây nên nhiễm độc bởi nấm (
David E.M, 2000)

Còn quất việt xanh thì lại chứa hàm lượng resveratrol gấp 2 lần quất việt thường, nhưng cả hai có hàm lượng resveratrol kém hơn nho là 10% (theo Lyons MM, et al 2003). Lyons et al., (2003), Frémont L., (2000), cho biết nếu ta dùng nhiệt nấu thì hàm lượng resveratrol lại giảm đi tới phân nửa. Còn nếu ta ăn resveratrol vào thì chúng cũng sẽ mau biến đổi và mau được bài tiết ra ngoài.mau được bài tiết ra ngoài.
     
  Quất việt                      Quất việt xanh 
Tóm lại ta được biết các tính chất c̉ua resveratrol là chống nấm, chống viêm, chống nhiều tác hại nguy hiểm khác sẽ nói ở phần sau, nó có nhiều trong loại nho đỏ có tên là Mustadine, mà khi làm rượu thì rượu mang tên là rượu nho Mustadine.
Nghiên cứu cơ chế của resveratrol.

1. Làm sao khắc phục kháng insulin? Chìa khóa của thành công.

Trong quyển sách Cell Metabolism được xuất bản vào tháng 10/2007 do nhà xuất bản Cell press, thì các nhà nghiên cứu nói rằng, với liều lượng nhỏ c̉ua một chất hoá học được thấy có nhiều trong vỏ quả nho đỏ hay trong rượu nho đỏ có tên gọi là resveratrol, nó có khả năng cải thiện insulin của các con chuột thí nghiệm. Chất đó cũng có tiềm năng lớn trong việc điều trị để ngăn ngừa tiểu đường. Các nhà nghiên cứu thấy rằng resveratrol hoạt hóa một enzyme có tên là SIRT1, chính enzyme này có công dụng là hồi phục DNA, điều chỉnh sự tiết insulin, và cải thiện sự nhạy cảm insulin ở chuột thí nghiệm. Nên resveratrol được coi như một tác nhân năng động trong nhiệm vụ kể trên.

Ông nói thêm là hầu như do sự rối loạn của tuyến nội tiết, mà hiện tại có trên 170 triệu người đang mắc đái tháo đường, và dự đoán cho đến năm 2030 thì con số này tăng lên tới 530 triệu người. Trong bệnh tiểu đường thì có hơn 90% số người mắc bệnh là do sự kháng insulin của các tế bào cơ thể dẫn đến sự kích thích các kích thích tố insulin (tuýp 2). Insulin là một hormone có nhiệm vụ kiễm soát đường. Và khi cơ thể trở nên quá tải, hay kém nhạy với insulin, còn được gọi là kháng insulin, sẽ là điều kiện dẫn đến bệnh tiểu đường tuýp 2. Còn đối với những người không bệnh, khoẻ mạnh, thì insulin kiểm soát đường trong cơ thể rất hữu hiệu. Vấn đề hiện tại là làm sao giảm bớt đi sự kháng insulin, đây sẽ  là chìa khoá để điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2.
Trong các nghiên cứu gần đây giữa SIRT1 và chu trình biến đổi của đường glucose cùng sự tiết ra chất insulin thì cho biết rằng chính chất SIRT1 là chất tham dự trực tiếp vào sự nhạy cảm trở lại của insulin. Các nhà nghiên cứu cho biết  rằng nếu tăng hàm lượng chất SIRT1 thì chính nó làm giảm đi tính chất kháng insulin.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, resveratrol với liều lượng là 2.5mg/kg/ngày sẽ làm gia tăng độ nhạy của các tế bào insulin. Hay nói một cách khác, nếu giảm hàm lượng resveratrol thì có nghĩa là cũng làm giảm luôn tính nhạy insulin ở động vật thí nghiệm khi cho chúng ăn những thức ăn có nhiều acid béo.

08/2006, các nhà nghiên cứu tại Đại học Boston cũng đã chứng minh resveratrol làm tăng cường hoạt động có lợi của insulin ở chuột thí nghiệm.
07/2007, phòng công nghệ của công ty Dược phẩm Sirtris cho biết chất resveratrol làm giảm lượng đường trong máu và đồng thời tăng sự nhạy của insulin gấp nhiều lần trong bệnh tiểu đường. Nhóm này cùng với Dr David Sinclair, một nhà nghiên cứu tại Harward University, đã có công tìm ra resveratrol từ năm 2003. Họ đã chi hơn 60 triệu USD trong việc bào chế loại thuốc trị tiểu đường từ resveratrol.

Thêm nữa, theo cuộc nghiên cứu trên các phụ nữ tuổi từ 25 của trường Đại học Y tế cộng đồng Harward từ năm 2003 đến 2007, công bố ngày 19/04/2007, nếu tiêu thụ mỗi ngày từ 1-2 ly rượu thì tỉ lệ mắc tiểu đường ít hơn 58% so với những người không uống rượu. Các nhà nghiên cứu đưa ra ý kiến rằng uống rượu sẽ giúp insulin nhạy trở lại và điều hòa hàm lượng đường trong máu. Cần lưu ý rằng, trong rượu vang đỏ có chất resveratrol, nghĩa là khi bị tiểu đường, dùng resveratrol sẽ làm tăng nhạy insulin. Thêm đó, trong tờ Annals of Internal Medecine cũng nói, dùng rượu vang đỏ, thì nguy cơ tim mạch giảm tới 55% ở những bệnh nhân tiểu đường.

Ngoài ra, Ông Qiwei Zhai (2007) người Trung Quốc, thuộc viện Hàn Lâm khoa học , có đề nghị cần quan tâm đến sức khỏe người dân, và khuyên nên tìm các loại thực phẩm thiên nhiên có nhiều chất resveratrol nhất mà dùng. Ông cho ví dụ như trong y học cổ truyền Trung Quốc và Nhật bản thường dùng loại cây gọi là Polygonum cuspidatum, dùng resveratrol không phải nhất thiết là phải dùng với rượu.

Ông đề nghị  những ai uống rượu vang đỏ với mục đích cải thiện sức khỏe, khi tiêu dùng chất resveratrol trong rượu thì nên nghĩ đến tai hại của rượu trước và nếu uống thì nên uống rất ít. Từ các thí nghiệm trên các con chuột thì có thể trả lời rằng để có đủ hàm lượng resveratrol cần thiết cải thiện sức khoẻ, mọi người phải uống rất nhiều rượu vang đỏ mỗi ngày, khoảng 3 lít/ ngày th̀ì trong cơ thể có được khoảng 15 mg chất trên (mức  có phản ứng sinh hoá hữu ích).

Tuy nhiên, sau một thời gian dài uống như thế thì sẽ trở thành người nghiện rượu, và tiền mua rượu cũng không kham nổi về lâu dài. Tiểu đường chưa hết, lại thêm bệnh nghiện, và gan cũng sẽ bị ung thư. Vậy nên chọn một giải pháp thích hợp nhất đối với sức khỏe của chính mình.

2. Ung thư tuyến tiền liệt và lợi ích từ rượu vang đỏ.


Tại Boston, 07/2007, Harward’s Men Health Watch cho biết các nhà khoa học nghiên cứu thấy rằng giữa ung thư tiền liệt tuyến và rượu vang đỏ có sự liên hệ với nhau. Nếu uống trên 4-7 ly trung bình cho mỗi tuần thì triệu chứng của bệnh ung thư tiền liệt tuyến giảm đi tới 52% so với những người không uống rượu vang đỏ. Rượu vang đỏ có tác dụng đặc biệt trong việc bảo vệ để chống lại sự lớn mạnh và lan rộng của ung thư.

Các nhà nghiên cứu tại Seattle tổng hợp nhiều yếu tố có ảnh hưởng mạnh đến ung thư tiền liệt tuyến của đàn ông tuổi từ 40-64 tuổi, gồm những người dùng rượu hay không dùng rượu. Thì họ ngạc nhiên nhận thất rằng uống rượu vang đỏ lại làm giảm đi ung thư tiền liệt tuyến. Kể cả khi dùng hàm lượng ít cũng mang lại nhiều lợi ích thiết thực, khi dùng thêm vài ly rượu đỏ mỗi tuần thì tỷ lệ tương đối của ung thư tiền liệt tuyến giảm đi 6% ( Castellon EA et al., 2006)

Tính chất hoá học của rượu đỏ giải thích tại sao lại phải dùng rượu đỏ, vì chúng chứa flavonoids và resveratrol, mà các rượu khác không có. Đó là những chất chống oxi hóa mạnh, và làm cân bằng androgens, hormone nam giới làm kích thích tuyến tiền liệt.

09/2007, Các nhà nghiên cứu tại University of Alabama at Birmingham công bố kết qủa các cuộc thí nghiệm như sau: chuột cho dùng thức ăn có chứa resveratrol, thì hơn 87% chuột bị ung thư tiền liệt tuyến, bệnh dường như kém phát triển trong khi chuột không dùng resveratrol thì ung thư tiền liệt tuyến lại tiến nhanh và đưa đến cái chết nhanh chóng. Hơn nữa, chuột cho ăn thức ăn có resveratrol thì hầu như việc phát triển ung thư tiền liệt tuyến lại ít nguy hiểm hơn dưới dạng bướu ít độc và có hơn 48% là hầu như các bướu này lớn chậm và ngưng hẳn, nếu so với chuột không dùng resveratrol.
Từ năm 1991, nhóm khoa học gia nghiên cứu tai Houston’s MD Anderson Cancer Center đã nhận thấy rằng resveratrol có rất nhiều công dụng khác nhau giúp chống lại nhiều loại ung thư cho con người. Duy chỉ có một chất đơn giản như resveratrol mà nó liên quan đến nhiều hormone, nhiều cơ chế làm chặn đứng mọi phát triển của các tế bào ung thư, và cũng có khả năng hủy diệt các tế bào ác tính đó. Lúc đầu, resveratrol dùng trong việc trợ tim để chống lại mọi suy thoái. Cộng thêm các tính chất chống oxi hóa và chống viêm, nên resveratrol được để ý trong việc chống ung thư. Năm 1990, các nhà nghiên cứu tại University of Wisconsins đã tìm ra 6 yếu tố để đáp ứng một biện pháp chống ung thư ưu việt là:      1- là không để lại những ảnh hưởng độc trong các tế bào bình thường.
2- là không tạo ra những loại ung thư khác.
3- Có thể dùng để uống .
4- Hiểu rõ cơ chế tác dụng của nó.
5- Không qúa đắt đỏ.
6- Được áp dụng chính cho con người.
Kết luận: Resveratrol lại hội đủ 6 điều kiện kể trên.

Tuổi tác, những hoá chất, những phóng xạ, và những yếu tố khác có thể lấn áp mọi khả năng đề kháng của các tế bào bình thường, khi chúng bị sự tấn công một cách âm thầm của ung thư. Cách tốt nhất chống lại ung thư là ngăn ngừa. Resveratrol là một liệu pháp ngăn ngừa ung thư bằng hóa học, giúp ngăn ngừa DNA nguy hại, phá hủy mọi tế bào ung thư từ giai đoạn ban đầu cho tới giai đoạn sau cùng trong cơ thể người và động vật thí nghiệm. Jang, M. et al (1997) cho biết có một điều đáng để ý là Resveratrol là một chất rất độc cho các tế bào ung thư nhưng lại không làm hư hại các tế bào bình thường khác trong cơ thể. Hơn nữa, khi dùng resveratrol để chống lại ung thư tiền liệt tuyến thì cũng mang đến nhiều lợi ích cho cơ thể trong các mặt khác như cho tim mạch. Mặt khác, resveratrol trong thiên nhiên lại tồn tại cùng với những chất khác như polyphenols quercetin trong các cây nho, quercetin là chất giúp cho resveratrol gia tăng khả năng sinh hóa của nó để tiêu diệt ung thư hữu hiệu. Chất indole-3- carbinole, hay 13C, được chiết từ nhiều loại cây có thể phối hợp với resveratrol trong việc tiêu diệt các tế bào ung thư bởi vì 13C là chất làm ngưng sự lớn của tế bào tại một điểm trong chu kỳ của tế bào trong khi resveratrol thì ngưng điểm khác. Nhiều nhà vật lý cũng đồng tình với quan điểm này khi phối hợp hoá học xạ trị và thuốc uống, vì mỗi thứ thuốc đều chỉ khiến cho các tế bào ung thư dừng lại được tại một thời điễm của chu kỳ lớn của tế bào nhưng không hiệu quả mạnh.
Kết luận.

Resveratrol là một ân nhân của nhân loại. Và nó được thấy nhiều nhất trong nho đỏ, có tên là muscadine grapes. Chất này cũng có thể tìm thấy ở nhiều loại thực vật khác, không nhất thiết phải là nho. Tôi đã có ý chụp hình để cho qúy vị khỏi lầm lẫn khi mua nho không đúng tên. Nếu mua đúng tên thì hàm lượng resveratrol được coi là tối hảo. Tôi cũng nêu lên vấn đề tại hại của rượu, để qúy vị tránh. Tôi nghĩ chất resveratrol không những hoạt hóa enzyme SIRT1 mà còn có nhiều công dụng hữu ích hơn nữa mà khoa học chưa tìm ra hết, và chính bài này tôi cũng chưa biên khảo ra hết những hữu ích của nó để cho qúy vị biết mà dùng. Có nhiều lợi ích và lý thú của resveratrol đành để cho lần tới. Dù sao, khi insulin bị kháng, Resveratrol làm giảm tính kháng Insulin, làm nó nhạy trở lại và khi mà các nhà khoa học đã và đang tuyên bố tiểu đường là bệnh bất trị, thì phải nói hơi lạc quan một chút là resveratrol là vị cứu tinh của hơn 150 triệu người đang khổ vì nó (90% của tiểu đường do kháng insulin). Resveratrol gia tăng tuổi thọ, sức dẻo dai bền bỉ, giúp thận tốt hơn, chống béo phì, trị cả bệnh nha chu vv.. Và biết bao người cũng khổ vì ung thư tiền liệt tuyến thì nay chính resveratrol lại giúp cho họ chống lại căn bệnh khổ sở ấy, để có cuộc sống vui vẻ chất lượng hơn.

1.   UỐNG RƯỢU VANG GIÚP ĐƯỢC CHỐNG NHIỄM TRÙNG MÁU
Một công trình nghiên cứu mới đây đã phát hiện thêm những lợi ích mới của một vài thành phần trong rượu vang đỏ có lợi cho sức khỏe nếu được tiêu thụ có mức độ.

Các nhà khoa học Scotland và Singapore đã quan tâm đến những tính chất chống viêm của một thành phần có nhiều trong rượu vang - chất resveratrol. Và họ đã chứng minh trên các con chuột phòng thí nghiệm về tính chất chống viêm của chất resveratrol.

Resveratrol là một hydrocarbure (polyphenol của nhóm stillbenes), được thực vật sản sinh ra để bảo vệ chúng chống lại các tác nhân gây bệnh, các côn trùng hay vi khuẩn. Một số loài thực vật như nho, dâu tằm hay lạc... sản sinh resveratrol với số lượng khá nhiều. Thậm chí cả những cây thông và bạch đàn cũng chứa nhiều resveratrol.

Giờ đây, chính những tính chất kháng viêm của resveratrol lại được nêu ra. Các nhà nghiên cứu đã thí nghiệm trên hai nhóm chuột. Ở nhóm thứ nhất, các con chuột được bổ sung resveratrol, còn nhóm thứ hai không được bổ sung gì cả. Sau đó, các nhà nghiên cứu tiêm vào cả hai nhóm chuột những tác nhân gây viêm mạnh, có khả năng gây ra nhiễm trùng máu, có thể dẫn tới tử vong.

Kết quả, những con chuột đã được nhận resveratrol vẫn tiếp tục mạnh khỏe, trong khi những con chuột không được nhận resveratrol đã phát triển những triệu chứng viêm nặng. Và các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng resveratrol có tác dụng ngăn cản sự tạo thành của hai enzyme, vốn có một vai trò đáng kể trong quá trình viêm.

Những kết quả nghiên cứu này có thể cho phép chúng ta nghĩ đến những biện pháp điều trị hiệu quả hơn chống lại các bệnh nhiễm trùng.

Nhà nghiên cứu Alirio Alendez thuộc trường Đại học Glasgow, Scotland giải thích: "Thật ra mục tiêu của công trình nghiên cứu là nhận biết một hướng liệu pháp để giúp điều trị những chứng bệnh viêm nặng. Và bây giờ là lúc cụ thể hóa tất cả những điều đó trên người"


 2. Ăn nho giúp ngừa gan nhiễm mỡ
Chất resveratrol có trong nho, rượu vang đỏ và đậu phộng... có thể giúp ngừa chứng gan nhiễm mỡ. Đây là kết luận của các nhà khoa học thuộc Đại học South Florida (Mỹ), theo hãng tin UPI. Qua thử nghiệm trên chuột, nhóm nghiên cứu nhận thấy chất resveratrol có thể ngăn chặn mỡ tích tụ trong gan bằng cách vừa giảm việc sản sinh ra chất mỡ vừa đốt cháy mỡ có trong gan. Uống nhiều rượu sẽ khiến mỡ tích tụ lại, dẫn đến các bệnh về gan như xơ gan, suy gan. Các chuyên gia cho rằng phát hiện này giúp mở ra hướng mới trong việc trị bệnh gan nhiễm mỡ từ resveratrol và cũng giúp ngừa bệnh ở những người có nguy cơ cao. Một cuộc thử nghiệm khác trên chuột cũng cho thấy resveratrol còn có thể giúp chống ung thư và có lợi cho tim mạch. 

3. Uống vang đỏ giúp chống bệnh phổi
Loại hoá chất này hiệu quả hơn nhiều so với các loại thuốc điều trị COPD hiện nay. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cách tốt nhất để ngăn chặn tổn thương phổi là không hút thuốc.
COPD không thể đảo ngược và ngày càng trầm trọng hơn. Khi mắc COPD, phổi suy yếu dần, làm cho bệnh nhân khó và thậm chí không thể thở được. Mọi thứ mà bác sĩ có thể làm là làm dịu các triệu trứng.

Vang đỏ có nhiều tác dụng chữa bệnh


Resveratrol là một chất chống oxy hoá, tồn tại trong vỏ của các loại trái cây màu đỏ chẳng hạn như nho. Các chuyên gia cho rằng nó là thành phần hữu ích chính trong vang đỏ. Loại đồ uống này góp phần chống ung thư, bảo vệ tim mạch và cải thiện chức năng của não bộ. Nhóm nghiên cứu thuộc Viện tim phổi quốc gia, ĐH Hoàng gia London, đã nghiên cứu cách thức phổi sưng tấy ở những bệnh nhân COPD.


Họ tập trung vào đại thực bào - tế bào sản xuất các protein cytokines. Ở bệnh nhân COPD, có quá nhiều cytokine được tạo ra, gây sưng tấy phổi. Các nhà nghiên cứu đã xem xét mẫu đại thực bào từ dịch phổi của 15 người hút thuốc và 15 bệnh nhân COPD, rồi làm cho chúng hoạt động bằng cách sử dụng một hoá chất tên là interleukin trước khi thêm resveratrol. Kết quả cho thấy thêm resveratrol làm mức cytokines giảm 94% ở đại thực bào của người hút thuốc và 88% ở đại thực bào của bệnh nhân COPD.


Các nhà khoa học sẽ tiếp tục nghiên cứu để xem bao nhiêu resveratrol tới được mô phổi. Tiến sĩ John Harvey thuộc Hiệp hội ngực của Anh cho biết: ''Vang đỏ có tác dụng chống bệnh tim và cần tiến hành nhiều nghiên cứu để đánh giá vai trò của nó trong việc giảm nhẹ triệu chứng của bệnh phổi mạn tính''

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét